Hàng loạt nút thắt khiến năng lượng tái tạo gặp khó khăn
Mặc dù có tiềm năng lớn về năng lượng tái tạo (NLTT), tuy nhiên sự chồng chéo các văn bản pháp luật và thiếu cơ chế, chính sách và hành lang pháp lý khiến các dự án NLTT gặp nhiều nút thắt khi triển khai.
TS. Bùi Thanh Minh - Phó Giám đốc Chuyên môn, VP Ban Nghiên cứu Phát Triển Kinh tế tư nhân (Ban IV). Ảnh: Hải Nguyễn
Thiếu khung pháp lý, chồng chéo luật “cản bước” sự phát triển năng lượng tái tạo
Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên mới với hai mục tiêu lớn trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045 và đạt Net Zero vào năm 2050. Để hiện thực hóa điều đó, nền kinh tế phải chuyển đổi mạnh mẽ theo hướng xanh, sáng tạo và số hóa, thay cho mô hình tăng trưởng cũ dựa trên tài nguyên và lao động giá rẻ.
Thảo luận tại Hội thảo “Giải pháp chuyển đổi năng lượng hướng tới Net Zero”, TS. Bùi Thanh Minh, Phó Giám đốc Chuyên môn, VP Ban Nghiên cứu Phát triển Kinh tế tư nhân (Ban IV) cho đánh giá hiện nay gần 50% điện năng của Việt Nam vẫn phụ thuộc vào than đá, gây khó khăn trong thực hiện các cam kết giảm phát thải và đối mặt với rủi ro môi trường, chi phí. Trong khi đó, nước ta có tiềm năng lớn về NLTT nhưng vướng nhiều rào cản về hạ tầng, pháp lý, cơ chế giá và vốn.
“Các định hướng lớn của Đảng hiện nay, thể hiện qua “Bộ tứ trụ cột” gồm các Nghị quyết 57, 59, 66 và 68, đang mở ra công cuộc “Đổi mới 2.0”, tạo nền tảng chính sách vững chắc cho chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Đây là thời điểm chín muồi để Việt Nam tái định vị chính sách năng lượng, chuyển từ phụ thuộc nhiên liệu hóa thạch sang phát triển năng lượng xanh, với khu vực tư nhân giữ vai trò chủ lực”, ông Bùi Thanh Minh, Phó Giám đốc Chuyên môn, VP Ban Nghiên cứu Phát triển Kinh tế tư nhân (Ban IV) nhấn mạnh.
Đánh giá về những khó khăn trong quá trình chuyển đổi năng lượng tại Việt Nam, PGS.TS Đặng Trần Thọ - Viện trưởng Viện Công nghệ Năng lượng (Đại học Bách Khoa Hà Nội) nhận định đó là sự thiếu hoàn thiện và thiếu ổn định của khung chính sách. Đến nay, dù đã ban hành Quy hoạch điện VIII điều chỉnh và các cam kết quốc tế về phát thải ròng bằng 0, nhưng chưa có một cơ sở luật về NLTT (Luật NLTT) hoặc Luật chuyển đổi năng lượng. Điều này dẫn đến tình trạng các chính sách rời rạc, thiếu tính ràng buộc pháp lý, khó triển khai nhất quán giữa Trung ương và địa phương.
“Cơ chế giá điện sau FIT chưa được ban hành kịp thời, khiến các nhà đầu tư mất niềm tin và đình hoãn nhiều dự án. Việc chuyển từ cơ chế FIT sang đấu thầu hoặc PPA theo giá trần chưa rõ ràng về phương pháp xác định giá, cơ chế chia sẻ rủi ro và lộ trình áp dụng. Đồng thời, các hợp đồng PPA hiện tại chưa có tính ràng buộc cao về pháp lý, thiếu cơ chế bảo lãnh thanh toán hoặc chia sẻ rủi ro hạ tầng - chính sách - pháp lý, khiến các tổ chức tài chính quốc tế khó tham gia đầu tư dài hạn”, PGS.TS Đặng Trần Thọ phân tích.
Bên cạnh đó, PGS.TS Đặng Trần Thọ cho rằng, sự chồng chéo giữa Luật Điện lực, Luật Đầu tư, Luật Đất đai và Luật Bảo vệ môi trường đang gây ra nhiều bất cập trong quá trình cấp phép đầu tư. Ví dụ, một dự án NLTT quy mô trên 10ha phải mất 12-18 tháng để tích hợp vào quy hoạch sử dụng đất, thẩm định môi trường, và phê duyệt chủ trương đầu tư. Việc thiếu một cơ chế liên thông giữa các bộ ngành cũng khiến tiến độ giải ngân và triển khai dự án bị kéo dài, làm tăng chi phí xã hội và giảm hiệu quả chuyển đổi năng lượng.
Điện gió có tiềm năng nhưng chưa thể khai thác như kỳ vọng
Hiện nay, Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia có tiềm năng điện gió hàng đầu Đông Nam Á. Với đường bờ biển dài hơn 3.000km, nhiều vùng có tốc độ gió trung bình từ 7 đến 9 m/s, Việt Nam sở hữu lợi thế lý tưởng để khai thác nguồn NLTT giàu tiềm năng này. Tuy nhiên, thực hiện mục tiêu công suất trong điện gió trên bờ và ngoài khơi trong theo QHĐ VIII điều chỉnh đang đối mặt với nhiều rào cản và nhiều chính sách cần khơi thông.
Theo ông Nguyễn Thái Hà - Tổng Giám đốc Tập đoàn Năng lượng T&T, hiện vẫn chưa có quy định cụ thể về quy hoạch không gian biển, trình tự cấp phép khảo sát và phát triển điện gió ngoài khơi (ĐGNK). Điều này gây khó khăn trong triển khai, khi chưa có hướng dẫn chi tiết về quy trình nộp hồ sơ xin giấy phép khảo sát và các yêu cầu kỹ thuật; vấn đề chồng lấn khu vực biển chưa được giải quyết; các khu vực biển dành cho phát triển ĐGNK và các tiêu chí liên quan chưa được công bố dẫn đến chậm trễ triển khai các công việc liên quan.
“Về cơ chế giá điện, ngày 23.5.2023, EVN đã báo cáo Bộ Công Thương tính toán khung giá phát điện các nhà máy điện gió, trong đó có ĐGNK. Cộng đồng các nhà đầu tư rất mong Bộ Công Thương sớm phê duyệt khung giá phát điện nhà máy ĐGNK để có cơ sở tính toán hiệu quả tài chính. Bên cạnh đó, hạ tầng kỹ thuật, chuỗi cung ứng chưa sẵn sàng. Thiếu hạ tầng cảng biển chuyên dụng: Việc lắp đặt và vận chuyển thiết bị điện gió ngoài khơi đòi hỏi các cảng biển chuyên dụng, hiện tại Việt Nam chưa có đủ cơ sở hạ tầng này. Chưa hình thành chuỗi cung ứng trong nước, dẫn đến phụ thuộc vào thiết bị và công nghệ nhập khẩu làm tăng chi phí đầu tư, tăng giá thành sản xuất điện thương phẩm”, ông Hà nhấn mạnh.
Để thúc đẩy phát triển điện gió tại Việt Nam, ông Hà đề xuất cần sớm hoàn thiện khung pháp lý, ban hành luật và các văn bản hướng dẫn cụ thể cho phát triển điện gió ngoài khơi. Đầu tư hệ thống hạ tầng, phát triển các cảng biển chuyên dụng, lưới điện truyền tải, hình thành chuỗi cung ứng trong nước gia tăng tỷ lệ nội địa hóa. Tăng cường đào tạo, nâng cao năng lực cho đội ngũ kỹ sư và chuyên gia trong lĩnh vực điện gió để tiếp nhận công nghệ thuật, tự chủ vận hành các trang trại ĐGNK quy mô lớn. Tạo cơ chế tài chính hấp dẫn như cam kết tỉ lệ bao tiêu sản lượng, thiết lập các cơ chế hỗ trợ tài chính, bảo lãnh tín dụng và thu hút vốn đầu tư quốc tế.
https://laodong.vn/xa-hoi/hang-loat-nut-that-khien-nang-luong-tai-tao-gap-kho-khan-1515217.ldo
NGUYỄN LAN (báo lao động)