Phóng viên đài huyện và những cống hiến thầm lặng
Những bức ảnh hiện trường đầu tiên, những câu chuyện độc lạ nơi thâm sơn cùng cốc thường bắt đầu từ họ - những phóng viên đài huyện. Những nhà báo thực địa ấy thầm lặng, cống hiến hết sức tâm huyết với nghề báo. Nhưng tên tuổi, số phận thường... hẩm hiu.
Đi cơ sở
Bà A Lăng Mai rụt rè, thầm thì với những người ngồi cạnh: "Tôi có ít măng rừng, ốc đá với rau tầm phục. Các chị mua giúp tôi nhé". Thấy không ai lên tiếng đáp trả, bà Đinh Thị Thảo từ bàn trước ngoái lại, cũng thì thào: "Tí nữa bán được đậu đen với mớ nếp rẫy thì tôi mua cho bà...". Không ai dám nói to, bởi cô giáo chủ nhiệm đang thông báo tình hình cuối năm học của các con họ.
Trên đường đi cơ sở của phóng viên đài huyện. Ảnh: Thanh Hải
Tôi tình cờ chứng kiến "thương vụ" này trong lớp họp phụ huynh trường huyện Phước Sơn, Quảng Nam khi chờ gặp thầy hiệu trưởng, để phỏng vấn về thực trạng bỏ học sớm của các trò miền núi. Cuộc đối thoại kiểu này là thường nhật, quen đến nỗi chẳng ai để ý ở thị trấn dưới chân đỉnh Ngọc Linh này. Nhưng đó là chi tiết đắt giá, là trường đoạn lấy nước mắt trong phóng sự trên Lao Động của tôi năm ấy. "Cơ duyên" này là do bạn đồng nghiệp ở Đài Truyền thanh huyện Phước Sơn, Quảng Nam đưa "đi cơ sở".
Với tôi và cũng như nhiều nhà báo khác, đến thị trấn Khâm Đức, huyện Phước Sơn này ở thời điểm những năm 1999, 2000... đã là "đi cơ sở" xa nhất rồi. Bởi từ Đà Nẵng đến đây phải mất 2 ngày trên chuyến xe đò cũ nát. Đường 14B lúc ấy như "trận địa" với hầm hố, đá tảng, ngầm sông... đầy hiểm nguy. Nhưng với các phóng viên đài huyện, việc đi cơ sở của họ mới thật là... đi. Mới tận mắt chứng kiến được những nếp nhà ven suối, bên chân đồi toang hoác vì sạt lở. Mới biết được những bà mẹ trẻ thơ, phải xin phép thầy bỏ dở giờ học để về... cho con bú. Mới chứng kiến được cảnh lội rừng chặt măng tre, hái rau mò ốc... mang ra tận chợ thị trấn để bán, lấy tiền nuôi con.
Trên đường đi cơ sở của phóng viên đài huyện. Ảnh: Thanh Hải
Hơn 10 năm sau, khi đường Hồ Chí Minh đã xây dựng, tôi trở lại thị trấn này để viết về cảnh "máu chảy, vàng rơi", môi trường bị huỷ diệt tại các bãi vàng ở Phước Sơn, để có loạt phóng sự kinh hoàng về "Sự thật phía sau giấy phép". Người anh đồng nghiệp ở đài huyện năm xưa đã về xuôi. Nhưng thay anh là lớp đàn em cũng bám thực địa, cũng là "thổ dân" đầy am hiểu về thời sự, văn hóa, xã hội. Nhờ họ mà tôi mới có thể tìm hiểu được một sự thật khác còn đau lòng hơn.
Nhân vật của phóng viên đài huyện
"Vàng tặc phá nát rừng, đào lở núi, lấy vàng ròng đi nhưng trốn thuế, thậm chí đánh nhau bằng giáo mác, bằng thuốc nổ, mìn... Nhưng, đó chỉ là bề nổi. Số phận của những người dân bản địa, đặc biệt là trẻ em ở vùng này mới gánh hậu quả nặng nề, dài lâu" - cậu phóng viên đài huyện bấy giờ đã "dẫn" tôi vào một góc khuất khác.
Tôi băng cánh đồng bỏ hoang, khấp khểnh qua ngổn ngang hầm hố để vào một bản người Bh'noong. Chiều vùng cao se lạnh, nhưng cảm giác trong tôi lại buồn. Cái buồn như len lỏi đến từ khắp nẻo đường, trong các căn nhà xiêu vẹo của những đàn bà goá "tuổi teen". Già làng Hồ Văn Dần ở thôn Tư, Phước Đức đã say khướt ngoài quán rượu ven đường. Chúng tôi đành tự đi tìm Hồ Thị Phước, 18 tuổi - một trong những "người đàn bà" bất hạnh, lỡ dại bị thợ vàng phỉnh phờ, thành "gái ngoan" ("không chồng mà chửa mới ngoan...").
Phước dắt chúng tôi men theo bờ sông Đắk Xa, qua làng bên - nơi em gửi con cho người ta trông trẻ để đi gặt lúa thuê. Vì hấp tấp chạy qua cánh đồng giờ đã thành đồi bãi, đôi dép nhựa cũ mèm của em đứt toát. Em luống cuống trong đôi chân trần - có lẽ do ánh mắt ra chiều xót xa thương hại của tôi. Phước khoe: "Em làm được nhà mới 12 ngày nay rồi, ra ở gần nhà một người cùng cảnh ngộ".
Phước cũng không ngần ngại khi kể về nỗi bất hạnh của mình: "Em đang học lớp 8 thì quen với thợ vàng Trần Phước, ở huyện Hiệp Đức. Nó nói yêu em, nhưng quen nhau được 3 tháng thì nó bỏ đi biệt tích khi biết em có thai. Theo lệ làng, kẻ chửa hoang như em hoặc người có bầu trước khi cưới chồng thì bị làng phạt vạ. Ngoài việc cúng con heo, mình phải ra khỏi làng, vào núi tự dựng lều ở một mình đẻ con...". Giọng Phước hồn nhiên không một lời oán trách kẻ bạc tình: "Khi nó bỏ đi, em biết mình phải đối đầu với tục phạt vạ của làng, nên lặng lẽ vào rừng sâu... Cũng may trời nuôi, bé Hồ Thị Tú Trinh của em khoẻ mạnh được 19 tháng tuổi rồi".
Căn lều kế bên cùng cảnh ngộ với Phước là của Hồ Thị Thắm, 19 tuổi. "Chồng" của Thắm cũng là thợ vàng, tên Trần Triều quê ở Bà Xá, Quảng Nam. Triều không bỏ đi như chồng Phước, nhưng bị chết vì HIV/AIDS tại bãi vàng.
Trên đường đi cơ sở của phóng viên đài huyện. Ảnh: Thanh Hải
Tôi thực sự choáng ngợp khi biết không chỉ có Phước, Thắm, Do... ở "làng" này. Cả xã Phước Đức lúc đó có hàng chục trường hợp tương tự. Đặc biệt quanh bãi vàng Phước Lộc, Phước Thành - nơi từng xảy ra vụ hỗn chiến kinh hoàng bằng bom mìn - có đến 16 "gái ngoan" phải "nằm cữ" ngoài rừng. Chính quyền và các đoàn thể huyện Phước Sơn có nhiều chuyến công cán vùng cao, khuyên các già làng bỏ tục lệ phạt vạ, cho các em được sinh đẻ ở nhà, nhưng lúc bấy giờ chưa có kết quả. Câu chuyện về các em cứ ám ảnh tôi. Những người mẹ tuổi học trò này bị làng nước phạt vạ, phải ra sống hẩm hiu giữ rừng sâu nước độc, tự sinh đẻ con trong vô vàn khó khăn, bởi không có sự chuẩn bị làm mẹ nào. Có con rồi họ lại khốn đốn đối mặt với đói nghèo, bệnh tật, côi cút nơi thâm sơn cùng cốc.
Cậu phóng viên đài huyện lúc đó giải thích rằng đây là truyền thống tốt đẹp từ lâu đời của người Bh'noong vùng cao Phước Sơn. Nhưng từ xưa, tục gần như chỉ là truyền thuyết vì hiếm có người "lỡ dại". Sự nghiêm khắc của tập tục mang tính giáo dục, răn đe cao. Nhưng rồi, những năm từ đầu thập niên 90 trở đi, "cơn lốc vàng" kèm với hàng nghìn thanh niên trai trẻ, tứ chiếng giang hồ về đây, họ mang cả thói hư tật xấu, ma túy, mại dâm ầm ào đổ về, đã biến không biết bao nhiêu học sinh thơ dại thành "gái ngoan". Ý nghĩa tốt đẹp của tập tục này rõ ràng thành hủ tục lạc hậu rồi.
Phía sau những giấy phép hợp pháp khai thác vàng ở Phước Sơn, lúc đó là những nhát đào khốc liệt của tàu cuốc, xe múc, là tiếng nổ của bom mìn oan nghiệt để khoét núi bòn vàng. "Cơn lốc vàng" không chỉ đào bạt núi, đánh rỗng rừng, hủy hoại tàn khốc môi sinh, mà những nhát đào hung bạo và tham lam đó còn lật tung những bản sắc văn hóa, nếp sinh hoạt, những truyền thống tốt đẹp của các bản làng vùng cao.
Những ngã rẽ mới
Rồi mỗi mùa mưa bão, động đất, lũ quét... các năm sau này, đồng nghiệp đài huyện luôn báo tin, gửi những bức ảnh, đoạn clip đầu tiên về hiện trường về miền xuôi cho chúng tôi. Họ không chỉ tác nghiệp báo chí, mà còn gửi đi một thông điệp, rằng đồng bào miền núi cao còn quá nhiều khó khăn, khổ nạn. Thông tin sạt núi, trôi làng, chết người hay những khốn khó đời sống vì nạn lâm tặc, khai khoáng trái phép... không chỉ là tin. Họ muốn truyền tải qua truyền thông, báo chí Trung ương, để mong có tiếng nói "nặng ký" hơn, giúp dựng lại mái nhà, xây trạm xá, trường học, nối lại những nhịp cầu, đoạn đường cho dân. Qua báo chí, cơ quan chức năng cũng kịp thời vào cuộc điều tra, xử lý các vấn nạn xâm hại môi trường, tài nguyên.
Nhưng bản thân họ, các phóng viên đài huyện đôi khi không được xem là viên chức, cũng không chính danh là nhà báo. Trong vòng 10 năm trở lại, khi có chủ trương bỏ đài phát thanh, truyền hình huyện (nhập vào Phòng Văn hóa thông tin), nhiều người tứ tán hoặc trở thành chuyên viên phòng văn hóa huyện. Dẫu vậy, ngay cả trong những hoàn cảnh khó khăn nhất, họ vẫn làm tròn chức trách nghiệp vụ, hoàn thành sứ mệnh nhà báo thực địa bao năm rồi. Trước những ngã rẽ mới, dù có thể không làm ở cơ quan báo chí, nhưng tôi tin họ - những phóng viên đài huyện vẫn luôn thể hiện vai trò làm báo bằng nhiều cách khác nhau.
https://laodong.vn/xa-hoi/phong-vien-dai-huyen-va-nhung-cong-hien-tham-lang-1526858.ldo
THANH HẢI (báo lao động)