Yêu cầu về tái cấu trúc xuất khẩu trước mức thuế mới của Mỹ
Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu tiếp tục tiềm ẩn nhiều bất định, việc tái cấu trúc hoạt động xuất khẩu không còn là lựa chọn, mà đã trở thành yêu cầu cấp thiết.
PGS.TS Ngô Trí Long. Ảnh: Nhân vật cung cấp
Mỹ - một trong những thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam - đang trở thành điểm nóng khi hàng loạt mặt hàng chủ lực phải đối mặt với mức thuế tăng vọt, có thể lên tới 46%. Đặc biệt, từ ngày 5.4.2025, mức thuế phổ quát 10% chính thức có hiệu lực, kèm theo các biện pháp trả đũa thương mại dự kiến từ 9.4, đặt doanh nghiệp Việt trước sức ép chưa từng có. Tuy vậy, trong thách thức cũng ẩn chứa cơ hội: Liệu đây có thể trở thành cú hích để Việt Nam tái cấu trúc mạnh mẽ hệ thống xuất khẩu, nâng cao năng lực thích ứng và giá trị gia tăng?
Chủ động mở rộng thị trường, tránh phụ thuộc
Tỷ trọng xuất khẩu sang các thị trường truyền thống như Mỹ, EU, Trung Quốc vẫn chiếm hơn 60% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam năm 2024. Tuy nhiên, điều này cũng đi kèm với rủi ro nếu các thị trường này gặp biến động về chính sách hoặc nhu cầu tiêu dùng. Do đó, việc đa dạng hóa thị trường đã được đẩy mạnh rõ nét. Theo Bộ Công Thương, năm 2024, kim ngạch xuất khẩu sang Ấn Độ tăng 12,5%, sang châu Phi tăng 9,3%, Mỹ Latinh tăng 8,1% so với năm trước. Các thị trường ASEAN và Trung Đông cũng ghi nhận mức tăng trưởng khả quan. Đây là minh chứng cho nỗ lực mở rộng thị trường, giảm lệ thuộc và tăng khả năng thích ứng của doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam.
Nâng tiêu chuẩn sản phẩm để “đi đường dài”
Không chỉ mở rộng thị trường, Việt Nam cũng đang nâng cấp tiêu chuẩn sản phẩm để đáp ứng các yêu cầu ngày càng cao về môi trường, lao động và công nghệ. Xuất khẩu xanh, sạch và có trách nhiệm xã hội không còn là khẩu hiệu mà đã được nhiều doanh nghiệp cụ thể hóa bằng hành động. Đến năm 2024, gần 40% doanh nghiệp dệt may xuất khẩu đã chuyển sang sử dụng nguyên liệu tái chế hoặc có chứng chỉ môi trường; ngành thủy sản cũng tăng cường truy xuất nguồn gốc và đáp ứng các tiêu chuẩn như ASC, BAP để giữ vững thị phần ở EU và Nhật Bản.
Chuyển đổi chuỗi giá trị: Thêm giá trị, tăng sức cạnh tranh
Một điểm chuyển biến tích cực là các doanh nghiệp không chỉ dừng lại ở gia công, mà đã bước đầu tham gia vào khâu thiết kế, xây dựng thương hiệu và ứng dụng công nghệ trong sản phẩm. Năm 2024, xuất khẩu nhóm hàng công nghệ cao đạt hơn 125 tỷ USD, chiếm khoảng 45% tổng kim ngạch, cho thấy sự dịch chuyển mạnh mẽ trong chuỗi giá trị. Nhiều mặt hàng như điện tử, linh kiện, thiết bị y tế, hàng thời trang mang thương hiệu Việt đã xuất hiện tại các thị trường khó tính như EU, Bắc Mỹ, ghi nhận sự tăng trưởng doanh thu từ 15 - 20%.
Logistics và thương mại điện tử: Đòn bẩy mới cho xuất khẩu
Chi phí logistics hiện vẫn chiếm khoảng 16% GDP - cao hơn mức trung bình toàn cầu. Việc phát triển hạ tầng logistics và đẩy mạnh thương mại điện tử xuyên biên giới đang được coi là giải pháp chiến lược để hỗ trợ xuất khẩu. Năm 2024, tổng giá trị xuất khẩu qua nền tảng thương mại điện tử đạt hơn 6 tỷ USD, tăng 35% so với năm trước. Các ngành hàng tiêu dùng nhanh, thời trang, thực phẩm chế biến ghi nhận tăng trưởng khả quan qua các kênh này.
Từ đối phó sang chủ động thích ứng
Việc tái cấu trúc xuất khẩu cho thấy tư duy mới trong điều hành và sản xuất kinh doanh. Từ chỗ bị động ứng phó với biến động thị trường, doanh nghiệp Việt đang chuyển mình để chủ động thích ứng - từ thị trường, sản phẩm đến phương thức tiếp cận. Đây là nền tảng vững chắc để giữ vững đà tăng trưởng xuất khẩu bền vững trong giai đoạn tới.
Tái cấu trúc hoạt động xuất khẩu không còn là lựa chọn, mà đã trở thành yêu cầu cấp thiết . Ảnh: Hải Nguyễn
Vai trò của Nhà nước và các hiệp định thương mại
Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn nhiều bất định, sự tham gia của Nhà nước cùng việc tận dụng hiệu quả các hiệp định thương mại tự do (FTA) không chỉ là động lực tăng trưởng xuất khẩu mà còn là "lá chắn" giúp doanh nghiệp ứng phó với các rủi ro thị trường.
Tận dụng FTA để mở rộng thị trường, giảm thiểu rủi ro
Việt Nam hiện là thành viên của nhiều hiệp định thương mại quan trọng như CPTPP, EVFTA, RCEP… Những hiệp định này đã mở ra cánh cửa lớn cho hàng hóa Việt Nam tiếp cận các thị trường giàu tiềm năng. Theo Bộ Công Thương, trong năm 2023, kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường thuộc CPTPP đạt trên 52 tỉ USD, tăng gần 15% so với năm 2022, trong đó thị trường Canada, Mexico, Chile ghi nhận mức tăng trưởng 2 con số. EVFTA cũng đóng vai trò đòn bẩy giúp Việt Nam thâm nhập sâu hơn vào thị trường EU. Kim ngạch xuất khẩu sang EU năm 2023 đạt 44 tỉ USD, trong đó các mặt hàng được hưởng ưu đãi thuế quan từ EVFTA chiếm gần 20%.
Thiết lập cơ chế cảnh báo sớm, hỗ trợ phòng vệ thương mại
Trong môi trường thương mại toàn cầu ngày càng cạnh tranh, nguy cơ bị điều tra chống bán phá giá, chống trợ cấp… là hiện hữu với nhiều ngành hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Do đó, vai trò của Nhà nước trong việc thiết lập các cơ chế cảnh báo sớm và hỗ trợ pháp lý là vô cùng quan trọng. Theo Cục Phòng vệ Thương mại (Bộ Công Thương), trong năm 2023, đã có hơn 25 vụ việc điều tra phòng vệ thương mại liên quan đến hàng hóa Việt Nam, chủ yếu trong các ngành như gỗ, thép, dệt may, thủy sản. Nhờ có sự hỗ trợ kịp thời của cơ quan chức năng, nhiều doanh nghiệp đã vượt qua được rào cản, tiếp tục duy trì thị phần xuất khẩu.
Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa chuyển đổi xanh
Doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMEs) chiếm khoảng 97% tổng số doanh nghiệp Việt Nam nhưng lại là nhóm dễ bị tổn thương nhất khi bước ra thị trường quốc tế. Nhà nước cần tiếp tục có các chính sách thiết thực để hỗ trợ nhóm này đổi mới công nghệ, tiếp cận tín dụng xanh và đẩy mạnh xúc tiến thương mại. Chẳng hạn, Chương trình hỗ trợ chuyển đổi số cho doanh nghiệp vừa và nhỏ giai đoạn 2021- 2025 do Bộ Kế hoạch và Đầu tư triển khai, đã hỗ trợ hơn 6.000 doanh nghiệp xây dựng lộ trình chuyển đổi công nghệ, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh. Ngoài ra, các quỹ như Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia, Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam đang từng bước hỗ trợ doanh nghiệp trong lộ trình chuyển đổi xanh, đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế.
Rào cản thuế quan từ Mỹ không chỉ là thách thức mà còn là cơ hội để Việt Nam chuyển mình. Đây là thời điểm vàng để tái cấu trúc xuất khẩu theo hướng bền vững, nâng cao giá trị và làm chủ chuỗi cung ứng. Thành công đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, doanh nghiệp, hiệp hội và các cơ sở nghiên cứu - đào tạo.
https://laodong.vn/kinh-doanh/yeu-cau-ve-tai-cau-truc-xuat-khau-truoc-muc-thue-moi-cua-my-1486383.ldo
PGS.TS NGÔ TRÍ LONG - CHUYÊN GIA KINH TẾ